Ai yêu thật thì nghĩ tưởng, ước muốn, hành động, vui sướng hoặc buồn đau trong người mình yêu; người yêu là trung tâm tự nhiên của mình. Chúa Giêsu nói: “Của cải ngươi ở đâu, lòng ngươi cũng ở đó.” Và với các Tông đồ, Ngài cũng nói: “Hãy ở lại trong Cha… hãy lưu lại trong tình yêu của Cha… như Cha ở lại trong tình yêu của Chúa Cha.”
Do đó, Đức Maria đã sống trong Bí tích Thánh Thể thần linh, trung tâm tình yêu của Mẹ. Mọi tư tưởng, lời nói và hành động của Mẹ đều phát xuất từ bí tích đó như những tia sáng mặt trời phát ra từ mặt trời vậy. Thánh Thể là sấm ngôn để Mẹ tham khải, là ân sủng để Mẹ dõi theo.
2. Chúa Giêsu trong nhiệm tích
Đang sống bằng cùng một sự sống tình yêu đã từng thiêu đốt Ngài trong những ngày Ngài còn lưu lại trên cõi thế. Trong trạng thái nhiệm tích, Ngài tiếp tục tôn thờ Cha Ngài bằng sự hủy mình sâu xa của Ngài. Ngài vẫn làm Đấng Trung Gian và can thiệp vào việc cứu độ nhân loại trước lòng nhân lành Thiên Chúa.
Đức Maria đã kết hợp với Chúa Giêsu bằng cầu nguyện, thêm vào đó là việc luyện tập và công trạng của các nhân đức mà Chúa Giêsu trong trạng thái vinh quang của Ngài, Ngài không còn có thể thực hành được nữa. Mẹ ứng đáp trạng thái khiêm nhường của Chúa Giêsu trong nhiệm tích, nhờ nhân đức và những hành vi khiêm nhường; ứng đáp thân phận làm của lễ của Ngài, nhờ khả năng chịu đau khổ thực tế của Mẹ; ứng đáp trạng thái đền tạ của Ngài, bằng những hành vi tự nguyện hãm mình. Để tôn kính đời sống ẩn dật của Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã tự mờ xoá mình đi, có thể nói, bằng cách hướng tới chỗ không là cái gì hơn là cái dáng vẻ nhân loại, vì toàn thể hữu thể, bản thể của cái dáng vẻ ấy đã được thay đổi, được biến hoá trong Chúa Giêsu Kitô. Mẹ nghèo như Chúa Giêsu trong nhiệm tích, thậm chí Mẹ còn nghèo hơn vì Mẹ có thể cảm nghiệm sự thiếu thốn thực tế của cái nghèo. Giống như Chúa Giêsu, Mẹ vâng phục và tôn kính sự vâng phục nhiệm tích của Ngài bằng cách tùng phục vị nhỏ nhất trong các thừa tác viên của Giáo hội. Để bắt chước sự vâng phục vui tươi, đơn sơ, mau lẹ của Ngài, Mẹ sung sướng vâng lời, hăng hái tùng phục ngay khi có dấu hiệu nhỏ nhất. Tóm lại, Mẹ Maria thực hành trong Mẹ sự sống Thánh Thể của Chúa Giêsu Kitô.
Hơn nữa, Đức Maria đã làm mới lại trong phép Thánh Thể tất cả những mầu nhiệm của cuộc sống trần gian của Đấng Cứu Chuộc, làm cho lòng biết ơn của Mẹ nên mới mẻ và trường tồn với nhiệt tâm luôn tăng tiến mãi.
3. Sự sống của người tôn thờ cũng phải như thế
Nếu họ muốn sống trong Thánh Thể. Nhưng để đạt được sự sống kết hợp này, họ phải giải thoát mình khỏi nô lệ tính ích kỷ chỉ biết mình – ngay cả trong việc phụng sự Thiên Chúa; có nói chuyện với Chúa Giêsu nó cũng chỉ nói về mình, về những chuyện riêng tư của nó; nó không biết cách đàm thoại với Chúa Giêsu bằng cách nói với Chúa về chính Chúa, về những lợi ích cho vinh quang Chúa, về những ước muốn của Thánh Tâm Ngài; nó không biết cách ở lại lặng lẽ trầm mặc dưới chân Ngài, thoả mãn với Ngài, không ước muốn gì trừ ra chính Ngài. Người ấy cần phải tự giải phóng mình ra khỏi tình trạng đó, tình trạng không biết nhẫn nại lắng nghe Chúa Giêsu, và nó làm cho chúng ta nên giống như kẻ làm thuê sốt ruột chờ lãnh tiền công, như người thừa ủy nóng vội ra đi.
Chúa Giêsu có rất ít những người tôn thờ biết tự cân nhắc để phạt tạ cho đủ và lấy làm sung sướng được ở lại với Ngài, bận tâm phục vụ Ngài như các thiên thần vẫn làm trên thiên đàng, như Mẹ Maria đã làm nơi nhà Tiệc ly. Ngài chỉ thấy ở dưới chân Ngài những kẻ ăn xin, hoặc những kẻ thao thức, những kẻ tìm kiếm sự giúp đỡ. Tuy nhiên, nếu là trong một hoàng cung, họ cũng biết bổn phận mình là các cận thần, biết cách chờ đợi phục dịch đức vua, biết tìm cách hiện diện để tôn kính oai quyền nhà vua. Than ôi! đó chỉ là vương triều của những cảm giác, và những quan tước vô dụng. Ở nơi triều đình Thánh Thể của Chúa Giêsu, đó là vương triều nội tâm của tình yêu, vậy mà chúng ta lại sợ, chúng ta lại muốn trốn tránh khỏi đó, chúng ta muốn hành động. Một mình Chúa Giêsu không đủ cho chúng ta; chúng ta phải có một cái gì đó bên cạnh Ngài.
Đức Maria mặc dù không bao giờ có thể đánh mất sự hiện diện của Chúa Giêsu Thánh Thể, Mẹ cũng chỉ hoạt động khi Ngài muốn, Mẹ xét mình rất kỹ khi ở dưới chân Ngài, nên đã được thưởng đầy đủ trong sự chiếm hữu Ngài.
Rất nhiều phép lạ tại Lộ Đức xảy ra trong lúc kiệu Thánh Thể
Khoa học đương thời đã dành một thời gian dài để tìm ra bí mật của các cuộc chữa bệnh trong nước hồ. Nhiệt độ của nước, các hợp chất của nó, tất cả đều được nêu ra. Một nhà tiểu thuyết nói: “Chúng ta hiểu làm sao đây, vì dù trường hợp nào đi nữa, việc tắm nước lạnh không thể chữa trị bệnh lao?” và cũng hay xảy ra rằng, qua một trong những sở thích có vẻ là bất ngờ của Đấng quan phòng, kế hoạch nguyên thủy ở Lộ Đức dường như cũng đột ngột thay đổi; chỉ cần một lời cầu nguyện mới cũng đủ làm cho người ta cảm thấy điều đó.
Chẳng phải chỉ trong Hồ tắm, nơi vốn đầy những kỳ bí bao trùm trên các bệnh nhân – mà còn ngay chính trong khi đi rước, giữa thanh thiên bạch nhật, dưới hàng ngàn cặp mắt chứng kiến, đã xảy ra những vụ chữa bệnh.
Họ muốn bắt Chúa Giêsu làm Người Tù câm lặng, bị nhốt trong Nhà Tạm. Nhưng kìa! Ngài đang đến, Ngài đang đi qua đám đông, những tia sáng thần tính Ngài còn lấp lánh hơn vàng bạc đá quí, khiến cặp mắt chúng ta phải ngỡ ngàng. Ngài đang hồi sinh những người hấp hối trên giường, dẫn họ đi theo cuộc khải hoàn và biến hình của Ngài, chiếu sáng vào đám đông và sưởi ấm những tâm hồn đã nhiều năm khô khan nguội lạnh. Biết bao cuộc chữa bệnh lạ lùng! Biết bao cuộc hoán cải kỳ diệu! Ai có thể kể cho hết?
Điều thú vị là nghiên cứu những cuộc biểu hiện này, những cuộc biểu hiện đã lan rộng từ năm 1888. Với những cuộc biểu hiện đó, tất cả đã tạo nên sự sống đích thực của các cuộc hành hương, đã phát triển; đám đông cứ lớn dần lên; các cuộc hiệp lễ thường xuyên hơn, vì đó là lò lửa mà từ đó đời sống siêu nhiên rút lấy lương thực.
Chính trong năm 1888 mà lần đầu tiên chúng tôi đã làm những thống kê các vụ chữa bệnh xảy ra nơi có phép Thánh Thể đi ngang qua. Năm đó các vụ được khỏi bệnh đạt tới tỉ lệ 16 phần trăm – vào khoảng một phần sáu; cứ bảy vụ được chữa lúc đi rước kiệu thì 40 vụ ở bể tắm. Một số lớn vụ vẫn chưa báo cáo về nơi chốn và cách thức. Thường thường, một vụ chữa được bắt đầu tại hồ tắm và kết thúc tại cuộc rước; những vụ bắt đầu nơi cuộc rước và kết thúc ở bể tắm thì hiếm hơn. Rất nhiều trường hợp không có kết quả gì ở hồ tắm, nhưng đã được chữa khỏi ngay tức khắc trước bí tích cực thánh.
Vụ chữa đầu tiên đáng lưu ý đó là vụ cô Nina Klin, một cô thiếu nữ 22 tuổi, vừa mới từ bệnh viện Paris ra. Một bình Acid gần 13 lít đổ vào người cô ta và gây bỏng rất nặng. Các sợi gân ở chân đã bị teo lại thành sẹo, va hơn mười tháng trời cô không thể nhúc nhích được tí nào. Mọi phương thức chữa trị đều ra vô ích – nào là xoa bóp, chạy điện – tất cả đều không kết quả. Nina Klin đã đi dự cuộc hành hương quốc gia. Cô đã dìm mình xuống hồ hai lần nhưng không cảm thấy kiến hiệu, vào ngày 22 tháng 8, cô đang nằm trên chiếc nệm ở trước Hang đá thì bí tích cực thánh đi ngang qua chỗ cô. Đột nhiên, cô được nâng dậy bằng một sức đẩy mạnh mẽ. Cô hất tung những chăn nệm đang chèn chung quanh người cô, nhảy ra khỏi cáng và đi theo đoàn rước với những bước đi chắc chắn. (Trích trong bản báo cáo của bác sĩ Boissairie đọc tại Hội nghị Thánh Thể ở Luân đôn năm 1898. Xem Nouveau Recueil de Miracles Eucharistique, par le Eug. Couet).
Tác giả: Thánh Phêrô Giulianô Eymard XXVIII
Cũng nên nhắc lại ở đây: Tôi không phải là chuyên gia về giáo luật, phụng vụ hay là nhà nghiên cứu văn hóa. Quan điểm của tôi hoặc của tác giả cũng không phải là tuyệt đối vì còn nhiều thiếu sót. Xin sẵn lòng lắng nghe các tiếng nói phản biện trong tinh thần đi tìm chân lý và sự thật để cùng nhau học hỏi và trân trọng di sản văn hóa của Đạo Công giáo trong lòng dân tộc Việt Nam.